Chợ thông tin Mắt kính Việt Nam (LOST)

Trở lại   Chợ thông tin Mắt kính Việt Nam (LOST) > Trung tâm thương mại > Bảo vệ người tiêu dùng - báo cáo sai phạm
Đăng ký Hỏi đáp Danh sách thành viên Lịch Tìm Kiếm Bài gửi hôm nay Đánh dấu là đã đọc

Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 26-10-2017, 11:23 AM
lephuc01 lephuc01 đang online
Member
 
Tham gia ngày: May 2017
Bài gửi: 43
Mặc định U NHÔM CÁC LOẠI

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

CHUYÊN SX CUNG ỨNG NHÔM U - V - LA - HỘP THANH CÁC LOẠI

NHẬN GIA CỘNG THEO KHUÂN MẪU



LH: 0937655551 - 0983994326



WEDSITE : NHÔM THANH CHỮ U






--------------------------------------------------------------------------------------------------------

Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất cả các kim khí khác , trừ sắt , và nó đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Nhôm thuần chất có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic. Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các tính chất cơ học tăng lên đáng kể.



Các hợp kim nhôm tạo thành một thành phần quan trọng trong các máy bay và tên lửa do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng



Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao phủ như: âm ba cả ánh sáng và bức xạ nhiệt. Các lớp bao phủ này tạo thành một lớp mỏng của ôxít nhôm trông coi , nó không bị hỏng hóc như các lớp bạc bao phủ vẫn hay bị. Trên thực tế , Hầu như toàn bộ các loại gương hiện đại được sản xuất sử dụng lớp phản xạ bằng nhôm trên mặt sau của thủy tinh. Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các v bên trong mặc dầu điều này làm cho bề mặt rất thính hơn với các tổn thương.



Các loại vỏ phủ nhôm thỉnh thoảng được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào biến hóa hấp thu bức xạ điện từ của kim ô tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.



Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để trở tạo các chi tiết của phương tiện chuyên chở ( ô tô , máy bay , xe tải , toa xe , tàu hỏa , tàu bể , v.v. )



Đóng gói ( can , giấy gói , v.v ) , xử lý nước.



Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần lần chót của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng. )



Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu ăn , v.v )

Các đường dây tải điện ( mặc dầu độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn )



chế tác máy móc.



mặc dầu tự bản thân nó là không bị từ hoá , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các nam châm Alnico.



Nhôm siêu tinh khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong công nghiệp điện tử và sản xuất đĩa CD.



Nhôm dạng bột thông thường được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có khả năng cho thêm vào trong sơn lót , chủ yếu là trong xử lý gỗ — khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.



Nhôm dương cực hóa là yên ổn hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau của xây dựng.



phần nhiều các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính đương đại được sản xuất từ nhôm vì nó dễ dàng trong làm ra và độ dẫn nhiệt cao.



Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong tự nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong làm ra thủy tinh. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để sản xuất ánh sáng có khả năng giao thoa.



Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm nguyên liệu rắn cho hoả tiễn , nhiệt nhôm và các thành phần nông dân của pháo.



3. Công nghệ sản xuất nhôm



mặc dầu nhôm là nguyên tố phổ quát trong vỏ quả đất ( 8 , 1% ) , nó lại hiếm trong dạng không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc và đã từng được cho là kim khí quý quý báu hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm xơ cua cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Bởi thế nhôm là kim khí tự do tương đối mới trong Công lao và được sản xuất với số lượng Công lao chỉ khoảng trên 100 năm.



Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó tách ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì tất nhôm của quả đất tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim khí khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ vững bền , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.



Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở nên một trong những thành phần nông dân quan trọng của Công lao luyện nhôm. Việc tái chế giản đơn là nấu chảy kim khí , nó rẻ hơn rất nhiều so với sản xuất từ quặng. Việc tinh chế nhôm tiêu hao nhiều điện năng; việc tái chế định mức hao khoảng 5% năng lượng để làm ra ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dầu cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một lĩnh vực mới. Tuy nhiên , nó là lĩnh vực hoạt động trầm lắng cho thâu những năm cuối thập niên 1960 khi sự bùng nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm chú ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ô tô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị gia đình cũ , contenơ và các sản phẩm khác.



Nhôm là một kim khí hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al2O3 ). Việc khử trực tiếp , giá dụ với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000°C ). Bởi thế , nó được Chia ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau đó bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim loại. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hổ lốn chỉ còn khoảng 950-980°C. Cryôlit nguyên thủy được tìm thấy như một khoáng chất ở Greenland , nhưng sau thời gian ấy được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hỗn hợp của các florua nhôm , natri và canxi ( Na3AlF6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh luyện , quặng này có vẻ son vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh luyện theo công nghệ Bayer. Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville.



Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wohler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali. Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon. Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc. Biến hóa tại catốt mang điện âm là:



Al 3+ + 3 e- = Al



Ở đây các ion nhôm bị biến đổi ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim khí sau thời gian ấy chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.

Tại cực dương ( anốt ) ôxy dạng khí được tạo thành:

2O 2 - = O 2 + 4 e-



Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy. Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế thường xuyên , do nó bị hao hụt do phản ứng:



O 2 + C = CO 2



ngược lại với anốt , các catốt Hầu như không bị mất mát trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được canh giữ bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị ăn mòn chính yếu là do các đặc tính điện hóa. Sau 5-10 năm , phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải sang sửa toàn bộ do các catốt đã bị bào mòn hoàn toàn.



Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Heroult tiêu hao nhiều điện năng , nhưng các công nghệ khác luôn luôn có khuyết điểm về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Tiêu chuẩn tiêu hao nang lu?ng phổ quát là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được làm ra. Các lò đương đại có mức tiêu thụ điện lực khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hành nghề nghiệp điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A. Các lò hiện này làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thử nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.



Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của làm ra nhôm , phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có khuynh hướng được đặt ở những khu vực ấn độ dương mà nguồn cung cấp điện dồi dào với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Quebec ở Canada. Trung Quốc hiện là nhà làm ra nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 )



4. Các đồng vị của nhôm



Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị yên ổn ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , chu kỳ bán hủy t=7 , 2.10 5

năm ) tìm thấy trong thiên nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ quát trong thiên nhiên là 100%. Al-26 được làm ra từ agon trong khí quyển do va chạm sinh ra bởi các tia vũ trụ proton. Các đồng vị của nhôm có áp dụng thực tiễn trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các tinh thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để Học hỏi vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời gian cháy và sự xâm thực trong thang độ thời gian 105 đến 106 năm ( về sai số ).



Al-26 nguồn gốc vũ trụ hàng đầu được sử dụng để Học hỏi mặt trăng và các tinh thạch. Các thành phần nông dân của thiên thạch , sau khi thoát khỏi nguyên lai của chúng , trong khi ngao du trong không gian bị tiến công bởi các tia vũ trụ , sinh ra các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống trái đất , tấm chắn khí quyển đã canh gác cho các phần tử này không sinh ra thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có thể sử dụng để rõ ràng tuổi trên địa cầu của các tinh thạch này. Các nghiên cứu về tinh thạch cho thấy Al-26 là tự do tương đối phổ thông trong thời gian hình thành hệ hành tinh của chúng ta. Có thể là nang lu?ng được giải phóng bởi sự phân rã Al-26 liên đới đến sự nấu chảy lại và sự sai biệt của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 6 tỷ năm. Trong tạp chí Science ngày 14 tháng 1 năm 2005 đã thông báo rằng các cụm 13 nguyên tử nhôm ( Al13 ) được tạo ra có thuộc tính giống như nguyên tử iốt; và 14 nguyên tử nhôm ( Al14 ) có thuộc tính giống như nguyên tử kim loại kiềm thổ. Các nhà Học hỏi còn liên kết 12 nguyên tử iốt với cụm Al13 để tạo ra một lớp mới của pôlyiotua. Sự phát kiến này được thông báo là Cởi ra khả năng của các biến hóa mới của bảng tuần hoàn các nguyên tố: "các nguyên tố cụm". Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Shiv N. Khanna ( Virginia Commonwealth University ) và A. Welford Castleman Jr ( Penn State University ).



5. Các hợp chất của nhôm



* AlH được điều chế khi nhôm bị nung nóng ở nhiệt độ 1500°C trong hiđrô.



* Al2O được pha chế bằng cách nung nóng ôxít thông thường , Al2O3 , với silic ở nhiệt độ 1800°C trong chân không.



* Al2S được pha chế bằng cách nung nóng Al2S3 với vỏ nhôm ở nhiệt độ 1300°C trong chân không. Nó nhanh chóng bị chuyển thành các chất ban sơ. Selenua được điều chế tương tự.



* AlF , AlCl và AlBr tồn tại trong pha khí khi ba halua được nung nóng cùng với nhôm.



* Subôxít nhôm , AlO có thể được tồn tại khi bột nhôm cháy trong ôxy.



* Hiđrua nhôm , ( AlH3 )n , có xác xuất làm ra từ trimêthyl nhôm và hiđrô dư dật. Nó cháy kèm nổ trong không khí. Nó cũng có xác xuất được điều chế bằng biến hóa của clorua nhôm trên hiđrua liti trong dung dịch ête , nhưng chẳng thể Cô đơn thành dạng tự do từ dung dịch.



* Cacbua nhôm , Al4C3 được sản xuất bằng cách nung nóng hỗn hợp hai nguyên tố trên 1.000°C. Các tinh thể màu vàng nhạt có kiến trúc lưới phức tạp , và đặc tính với nước hay axít loãng tạo ra mêtan. Axêtylua , Al2( C2 )3 , được điều chế bằng cách cho axêtylen đi qua nhôm nóng.



* Nitrua nhôm , AlN , có thể được làm ra từ các nguyên tố ở nhiệt độ 800°C. Nó bị thủy phân bởi nước tạo ra amôniắc và hiđrôxít nhôm.



* Phốtphua nhôm , AlP , được sản xuất na ná , và bị thủy phân thành phốtphin ( PH3 )

.

* Ôxít nhôm , Al2O3 , tìm thấy trong tự nhiên như là corunđum , và có thể pha chế bằng cách đốt nóng nhôm với ôxy hay nung nóng hiđrôxít , nitrat hoặc sulfat. Như là một loại đá quý , độ cứng của nó chỉ thua có xoàn , nitrua bo và cacborunđum. Nó cơ hồ không hòa tan trong nước.



* Hiđrôxít nhôm( Al( OH )3 ) có xác xuất được pha chế như là một chất kết tủa dạng gelatin bằng cách cho thêm amôniắc vào trong dung dịch của các muối nhôm. Nó là lưỡng tính , vừa là bazơ yếu vừa là axít yếu , có xác xuất tạo ra các muối aluminat với kim loại kiềm. Nó tồn tại trong các dạng tinh thể khác nhau



* Al2S3 , có xác xuất pha chế bằng cách cho sulfua hiđrô đi qua bột nhôm. Nó là một chất đa hình.



* Florua nhôm , AlF3 , có thể phối chế bằng cách cho hai nguyên tố tác dụng với nhau hay cho hiđrôxít nhôm tác dụng với HF. Nó làm nên phân tử lớn , bay hơi không qua pha nóng chảy ở nhiệt độ 1.291°C ( thăng hoa ). Nó là một chất rất trơ. Các trihalua khác là các chất dime , có kiến trúc cầu nối.



* Các hợp chất hữu cơ của nhôm có công thức chung AlR3 tồn tại và nếu không phải là các phân tử lớn , thì là các chất dime hay trime. Chúng được sử dụng trong tổng hợp chất hữu cơ , ví dụ trimêtyl nhôm.



* Các chất alumino-hyđrua của phần lớn các nguyên tố có xác xuất tích điện dương đã được biết , trong đó quý báu nhất là hiđrua nhôm liti , Li[AlH4]. Khi bị đốt nóng , nó phân hủy thành nhôm , hiđrô và hiđrua liti , nó bị thủy phân trong nước. Nó có nhiều ứng dụng trong hóa hữu cơ. Các alumino-halua [AlR4] có kiến trúc tương tự.



6. Một số điểm lưu ý khi sử dụng nhôm



Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ thông nhất mà không có công năng có ích nào cho các thân hình sống , nhưng có một số người bị dị ứng với nó — họ bị các chứng viêm da do tiếp kiến với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng tiếp thụ các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn ọe hay các triệu chứng khác của ngộ độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống ỉa chảy ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là như các kim khí nặng , nhưng có dấu hiệu của ngộ độc nếu nó được hấp thụ nhiều , mặc dầu việc sử dụng các đồ nhà bếp bằng nhôm ( phổ quát do khả năng chống bào mòn và dẫn nhiệt tốt ) nhìn chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng bị trúng độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng lan tràn thặng dư các chất hút mồ hôi chứa nhôm dễ thường là nguồn độc nhất vô nhị sinh ra sự bị trúng độc nhôm. Địa ngục ta cho rằng nhôm liên đái đến bệnh Alzheimer , mặc dầu các nghiên cứu gần đây đã bị bác bỏ.



Cần cẩn trọng để không cho nhôm tiếp xúc với một số chất nào đó có khả năng bào mòn nó rất nhanh. Nếu , chỉ một lượng nhỏ thạch tín gặp mặt với bề mặt của miếng nhôm có xác xuất gây thiệt hại nhiều lớp ôxít nhôm gác canh thường nhật có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một một cái xà có kiến trúc nặng nề có xác xuất bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại hàn thử biểu thạch tín không được phép trong nhiều trường bay và hãng v , vì nhôm là thành phần cấu trúc căn bản của các máy bay.
Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
Trả lời


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com



Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 01:15 AM



Diễn đàn được xây dựng bởi SangNhuong.com
© 2008 - 2024 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.