Chợ thông tin Mắt kính Việt Nam (LOST)

Trở lại   Chợ thông tin Mắt kính Việt Nam (LOST) > Trung tâm thương mại > Bảo vệ người tiêu dùng - báo cáo sai phạm
Đăng ký Hỏi đáp Danh sách thành viên Lịch Tìm Kiếm Bài gửi hôm nay Đánh dấu là đã đọc

Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 16-05-2017, 11:08 AM
lephuc01 lephuc01 đang online
Member
 
Tham gia ngày: May 2017
Bài gửi: 43
Mặc định GIA CÔNG NHÔM THEO KHUÂN MẪU

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Công ty chuyên sx cung cấp sỉ lẻ nhôm thanh các loại U, V, nẹp, hộp phi tròn...nhận gia công theo khuân mẫu



lh 0937 655 551 - 0983 994 326



gia công nhôm thanh theo khuân mẫu không hạn chế số lượng



================================================== ==================================================

Nhôm ( tiếng Latinh : alumen , alum ) là tên một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu Al và số nguyên tử bằng 13. Thịnh hành thời Tống tử khối bằng 27 đvC. Khối lượng riêng là 2 , 7 g/cm 3 . Nhiệt độ nóng chảy là 660 o C. Nhôm là nguyên tố phổ biến thứ 3 ( sau ôxy và silic ) , và là kim loại phổ thông nhất trong vỏ địa cầu. Nhôm chiếm khoảng 8% khối lớp rắn của trái đất. Kim loại nhôm hiếm biến hóa hóa học mạnh với các mẫu quặng và có mặt ngăn lại trong một giới hạn nhất định trong các môi trường khử cực mạnh. Tuy vậy , nó vẫn được tìm thấy ở dạng hợp chất trong hơn 270 loại khoáng chất khác nhau. [4] Quặng chính chứa nhôm là bô xít .



Nhôm có điểm đáng chú ý của một kim khí có tỷ trọng thấp và có xác xuất chống bào mòn cảnh tượng thụ động. Các thành phần nông dân cấu trúc được làm từ nhôm và hợp kim của nó là rất quan yếu cho ngành công nghiệp cơ giới vũ trụ và rất quan yếu trong các khu vực khác của liên lạc chuyên chở và nguyên liệu cấu trúc. Các hợp chất hữu ích nhất của nhôm là các ôxít và sunfat.



mặc dầu nó có mặt phổ quát trong môi trường nhưng các muối nhôm không được bất kỳ dạng sống nào sử dụng. Với sự phổ quát của nó , nhôm được dung nạp tốt bởi thực vật và động vật. [5]



Từ "nhôm" trong tiếng Việt có nguyên lai từ aluminium trong tiếng Pháp .







tính chất [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một kim loại mềm , nhẹ với màu xám bạc ánh kim mờ , vì có một lớp mỏng ôxi hóa làm nên rất nhanh khi nó để trần ngoài không khí . Tỷ trọng riêng của nhôm chỉ khoảng một phần ba sắt hay đồng ; nó rất mềm ( chỉ sau vàng ) , dễ uốn ( đứng thứ sáu ) và dễ dàng gia công trên máy móc hay đúc; nó có khả năng chống ăn mòn và bền vững do lớp ôxít trông coi. Nó cũng không nhiễm từ và không cháy khi để ở ngoài khí trời ở hoàn cảnh thường nhật .



Sức bền của nhôm thuần khiết là 7–11 MPa , trong lúc hợp kim nhôm có độ bền từ 200 MPa đến 600 MPa. [6] Các nguyên tử nhôm sắp đặt thành một cấu trúc lập phương tâm mặt ( fcc ). Nhôm có năng lượng xếp lỗi vào khoảng 200 mJ/m 2 . [7]



Nhôm phản ứng với nước tạo ra hydro và năng lượng:



2 Al + 6 H 2 O → 2 Al( OH ) 3 + 3 H 2

tính chất này có xác xuất dùng để làm ra hydro , tuy nhiên đặc tính này chóng vánh dừng lại vì tạo lớp kết tủa keo lắng xuống , ngăn đón biến hóa xảy ra. [8]



Khi ngâm trong dung dịch kiềm đặc , lớp màng này sẽ bị phá hủy theo phản ứng



Al( OH ) 3 +NaOH → NaAlO 2 + 2H 2 O

tiếp kiến Al lại tác dụng với nước như biến hóa trên. Quá trình này lại diễn ra đến khi Al không bị hòa tan hết.



Lịch sử [ sửa sửa mã nguồn ] Tham chiếu đầu tiên tới nhôm ( mặc dù không thể chứng minh ) là trong Naturalis Historia của Gaius Plinius Secundus ( tức Pliny anh ):



Có một ngày càng người thợ vàng ở Roma được phép cho hoàng đế Tiberius xem một chiếc đĩa ăn làm từ một kim khí mới. Chiếc đĩa rất nhẹ và có màu sáng như bạc . Người thợ vàng nói với hoàng đế rằng ông đã làm ra kim khí từ đất sét thô. Ông cũng cam kết với hoàng đế rằng chỉ có ông ta và chúa Trời biết cách làm ra kim loại này từ đất thó. Hoàng đế rất ham , và như một chuyên gia về tài chính ông đã quan tâm tới nó. Tuy nhiên ông nhận ngay ra là mọi tài sản vàng , bạc của ông sẽ mất giá trị giả dụ người dân bắt đầu làm ra kim loại màu sáng này từ đất thó. Vì thế , thay vì cám ơn người thợ vàng , ông đã ra lệnh chặt đầu ông ta . [9] [10]



Những người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã sử dụng các loại muối của kim loại này như là thuốc cẩn màu ( nhuộm ) và như chất làm se vết thương , và phèn chua vẫn được sử dụng như chất làm se. Năm 1761 Guyton de Morveau đề xuất cách gọi gốc của phèn chua là alumine . Năm 1808 , Humphry Davy xác định được gốc kim loại của Phèn trắng ( alum ) , mà theo đó ông Mệnh danh cho nhôm là aluminium .



tên tuổi của Friedrich Wöhler nhìn chung được gắn liền với việc phân lập nhôm vào năm 1827 . Tuy nhiên , kim khí này đã được làm ra lần đi hàng đầu trong dạng không thuần khiết hai năm trước bởi nhà vật lý và hóa học Đan Mạch Hans Christian Ørsted .



Nhôm được chọn làm chóp cho đài kỷ niệm Washington vào thời kì khi một aoxơ ( 28 , 35 g ) có giá trị bằng hai lần ngày lương của người lao động. [11]



Charles Martin Hall nhận được bằng sáng chế ( số 400655 ) năm 1886 , về quy trình điện phân để sản xuất nhôm. Henri Saint-Claire Deville ( Pháp ) đã hoàn thiện phương pháp của Wöhler ( năm 1846 ) và biểu lộ nó trong cuốn sách năm 1859 với hai sửa đổi cho tiến bộ hơn trong quy trình là thay thế kali thành natri và hai thay vì một ( chlorure )??. Phát minh của quy trình Hall-Héroult năm 1886 đã làm cho việc sản xuất nhôm từ khoáng vật trở thành không đắt tiền và hiện tại nó được sử dụng rộng rãi trên thế giới.



Nước Đức trở nên nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền. Tuy nhiên , năm 1942 , những nhà máy thủy điện mới như Grand Coulee Dam đã cho phép Mỹ những thứ mà nước Đức quốc xã chẳng thể hy vọng cạnh tranh: khả năng sản xuất đủ nhôm để có xác xuất sản xuất 60.000 máy bay chiến đấu trong bốn năm. [12] .



áp dụng [ sửa sửa mã nguồn ] Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất thảy các kim loại khác , trừ sắt [13] , và nó đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Nhôm nguyên chất có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic [14] . Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các thuộc tính cơ học có xu hướng gia tăng so với bình thường đáng kể.



Các hợp kim nhôm làm nên một thành phần nông dân quan yếu trong các máy bay và hoả tiễn do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng.

Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao trùm cộng chấn cả ánh sáng và bức xạ nhiệt . Các lớp bao phủ này gây nên một lớp mỏng của ôxít nhôm trông coi , nó không bị hư hỏng như các lớp bạc bao trùm vẫn hay bị. Trên thực tế , gần như toàn bộ các loại gương đương đại được sản xuất sử dụng lớp phản xạ bằng nhôm trên mặt sau của thủy tinh . Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các phản xạ bên trong mặc dù điều này làm cho bề mặt nhạy cảm hơn với các tổn thương.

Các loại vỏ phủ nhôm thỉnh thoảng được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào đặc tính hấp thu bức xạ điện từ của aìc vàng tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.

Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để chế tạo các chi tiết của phương tiện vận tải ( ô tô , tàu bay , xe tải , toa xe tàu hỏa , tàu bể , v.v. )

Đóng gói ( can , giấy gói , v.v )

xử lý nước

Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần sau cuối của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng. [15] )

Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu bếp , v.v )

Các đường dây tải điện ( mặc dù độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn [16]

chế tác máy móc.

mặc dầu tự bản thân nó là không nhiễm từ , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các nam châm Alnico .

Nhôm siêu thuần khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong Công lao điện tử và làm ra đĩa CD .

Nhôm dạng bột thường nhật được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có xác xuất cho thêm vào trong sơn lót , cốt tử là trong xử lí gỗ — khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.

Nhôm dương cực hóa là ổn định hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các chuye khác nhau của xây dựng.

phần nhiều các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính hiện đại được làm ra từ nhôm vì nó dễ dàng trong làm ra và độ dẫn nhiệt cao.

Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong thiên nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong sản xuất sao thủy. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để sản xuất ánh sáng có thể giao thoa .

Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm vật liệu rắn cho tên lửa , nhiệt nhôm và các thành phần của pháo hoa .

biến hóa nhiệt nhôm dùng để pha chế các kim khí có nhiệt độ nóng chảy cao ( như crôm Cr Vonfarm W... )

Sự phổ biến , điều chế [ sửa sửa mã nguồn ] Đồng vị bền của nhôm được tạo ra khi hydro hợp hạch với magiê hoặc trong các sao lớn hoặc trong các vụ nổ siêu tân tinh . [17]



mặc dù nhôm là nguyên tố phổ quát trong vỏ trái đất ( 8 , 3% theo khối lượng ) [18] , nó lại hiếm trong dạng không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc và đã từng được cho là kim loại quý quý báu hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm xơ cua cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Vì thế nhôm là kim khí tự do tương đối mới trong Công lao và được sản xuất với số lượng Công lao chỉ khoảng trên 100 năm.



Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó tách ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì tuốt nhôm của quả đất tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim loại khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ bền vững , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.



Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở nên một trong những thành phần quan trọng của công nghiệp luyện nhôm . Việc tái chế đơn giản là nấu chảy kim loại , nó rẻ hơn dồi dào so với làm ra từ quặng. Việc tinh luyện nhôm hao hụt nhiều điện năng; việc tái chế chỉ tiêu hao khoảng 5% năng lượng để làm ra ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dù cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một lĩnh vực mới. Tuy nhiên , nó là chuye hoạt động trầm lắng cho suốt những năm cuối thập niên 1960 khi sự bùng nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm để ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ôtô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị gia đình cũ , contenơ và các sản phẩm khác.



Nhôm là một kim khí hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al 2 O 3 ). Việc khử trực tiếp , ví dụ với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000 °C ). Vì thế , nó được tách ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau đó bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim loại. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hỗn tạp chỉ còn khoảng 950-980 °C. Cryôlit bổn sơ được tìm thấy như một khoáng vật ở Greenland , nhưng sau đó được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hỗn tạp của các florua nhôm , natri và canxi ( Na 3 AlF 6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh luyện , quặng này có vẻ son vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh chế theo công nghệ Bayer . Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville .



Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wöhler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali .



Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon . Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động tự do. Đặc tính tại catốt mang điện âm là:



Al 3+ + 3e - → Al

Ở đây các ion nhôm bị biến chuyển ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim loại sau đó chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.



Tại cực dương ( anode ) ôxy dạng khí được tạo thành:



2O 2- → O 2 + 4e -

Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy . Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế luôn luôn , do nó bị tiêu hao do phản ứng:



O 2 + C → CO 2

ngược lại với anốt , các catốt cơ hồ không bị tiêu hao trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được canh giữ bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị bào mòn chính yếu là do các phản ứng điện hóa. Sau 5-10 năm , nước phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải tu sửa toàn bộ do các catốt đã bị ăn mòn hoàn toàn.



Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Héroult hao hụt nhiều điện lực , nhưng các công nghệ khác xoành xoạch có khuyết điểm về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Thời hạn mất mát năng lượng phổ quát là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được sản xuất. Các lò hiện đại có mức tiêu thụ điện năng khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hiện nghề nghiệp điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A . Các lò hiện nay làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thí nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.



Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của sản xuất nhôm , nước phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có khuynh hướng được đặt ở những khu vực mà nguồn cung cấp điện rất nhiều với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Québec ở Canada .



Trung Quốc hiện là nhà làm ra nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 ).



Đồng vị [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị ổn định ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , t 1/2 = 7 , 2 × 10 5 năm ) tìm thấy trong tự nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ quát trong tự nhiên là 100%. Al-26 được sản xuất từ agon trong khí quyển do đụng chạm ra đời bởi các tia vũ trụ proton . Các đồng vị của nhôm có vận dụng thực tiễn trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các thiên thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để Học hỏi vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời gian cháy và sự xói mòn trong thang độ thời gian 105 đến 106 năm ( về sai số ).



Al-26 nguyên lai vũ trụ hàng đầu được sử dụng để nghiên cứu mặt trăng và các thiên thạch . Các thành phần của tinh thạch , sau khi thoát khỏi nguyên lai của chúng , trong khi chu du trong không gian bị tiến công bởi các tia vũ trụ , sinh ra các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống địa cầu , tấm chắn khí quyển đã canh giữ cho các phần tử này không sinh ra thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có khả năng sử dụng để chính xác tuổi trên trái đất của các tinh thạch này. Các Học hỏi về tinh thạch cho thấy Al-26 là tương đối phổ biến trong thời kì hình thành hệ hành tinh của chúng ta. Có thể là năng lượng được giải phóng bởi sự phân rã Al-26 liên đới đến sự nấu chảy lại và sự sai dị của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 55 tỷ năm. [19]



Cụm [ sửa sửa mã nguồn ] Trong tập san Science ngày 14 tháng 1 năm 2005 đã thông báo rằng các cụm 13 nguyên tử nhôm ( Al 13 ) được tạo ra có tính chất giống như nguyên tử iốt ; và 14 nguyên tử nhôm ( Al 14 ) có tính chất giống như nguyên tử kim loại kiềm thổ . Các nhà nghiên cứu còn liên kết 12 nguyên tử iốt với cụm Al 13 để tạo ra một lớp mới của pôlyiốtua . Sự phát kiến này được thông báo là Cởi ra khả năng của các đặc tính mới của bảng tuần hoàn các nguyên tố : "các nguyên tố cụm". Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Shiv N. Khanna ( Đại học Virginia Commonwealth ) và A. Welford Castleman Jr ( Đại học tiểu bang Penn ). [20]



cảnh báo [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ biến nhất mà không có công năng hữu ích nào cho các thân hình sống , nhưng có một số người bị dị ứng với nó — họ bị các chứng viêm da do tiếp xúc với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn ọe hay các triệu chứng khác của bị trúng độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống ỉa chảy ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là chất độc như các kim khí nặng , nhưng có mật hiệu của bị trúng độc nếu nó được hấp thụ nhiều , mặc dầu việc sử dụng các đồ Bếp bằng nhôm ( phổ thông do khả năng chống ăn mòn và dẫn nhiệt tốt ) nói chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng ngộ độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng quá nhiều các chất hút mồ hôi chứa nhôm có lẽ là nguồn độc nhất vô nhị sinh ra sự ngộ độc nhôm. Địa ngục ta ý là nhôm liên đái đến bệnh Alzheimer , mặc dù các Học hỏi gần đây đã bị bác bỏ.



Cần cẩn thận để không cho nhôm tiếp xúc với một số chất hóa học nào đó có xác xuất bào mòn nó rất nhanh. Ví dụ , chỉ một lượng nhỏ thuốc độc tiếp xúc với bề mặt của miếng nhôm có thể phá hủy lớp ôxít nhôm bảo vệ bình thường có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một cái xà có cấu trúc nặng nề có khả năng bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại nhiệt kế thạch tín không được phép trong nhiều sân bay và hãng cơ giới , vì nhôm là thành phần kiến trúc căn bản của các máy bay.







kim loại Nhôm



Nhôm là tên một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu Al và số nguyên tử bằng 13. Đeo mặt nạ tử khối bằng 27 đvC. Khối lượng riêng là 2 , 7 g/cm3. Nhiệt độ nóng chảy là 660oC. Từ "nhôm" trong tiếng Việt có nguồn gốc từ aluminium trong tiếng Pháp.

tính chất



Nhôm là một kim khí mềm , nhẹ với màu xám bạc ánh kim mờ , vì có một lớp mỏng ôxi hóa gây nên rất nhanh khi nó để trần ngoài khí trời . Tỷ trọng riêng của nhôm chỉ khoảng một phần ba sắt hay đồng ; nó rất mềm ( chỉ sau vàng ) , dễ uốn ( đứng thứ sáu ) và dễ dàng gia công trên máy móc hay đúc; nó có khả năng chống ăn mòn và bền vững do lớp ôxít trông coi. Nó cũng không nhiễm từ và không cháy khi để ở ngoài không khí ở điều kiện thông thường .



Lịch sử

Tham chiếu đi hàng đầu tới nhôm ( mặc dầu không thể chứng minh ) là trong Naturalis Historia của Gaius Plinius Secundus ( tức Pliny anh ):



Có một càng ngày càng người thợ vàng ở Roma được phép cho hoàng đế Tiberius xem một chiếc đĩa ăn làm từ một kim khí mới. Chiếc đĩa rất nhẹ và có màu sáng như bạc . Người thợ vàng nói với hoàng đế rằng ông đã làm ra kim khí từ đất thó thô. Ông cũng cam kết với hoàng đế rằng chỉ có ông ta và chúa Trời biết cách làm ra kim loại này từ đất thó. Hoàng đế rất huých , và như một chuyên gia về tài chính ông đã quan hoài tới nó. Tuy nhiên ông nhận ngay ra là mọi tài sản vàng , bạc của ông sẽ mất giá trị giả dụ người dân bắt đầu làm ra kim khí màu sáng này từ đất thó. Vì thế , thay vì cảm ơn người thợ vàng , ông đã ra lệnh chặt đầu ông ta .



Những người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã sử dụng các loại muối của kim loại này như là thuốc cẩn màu ( nhuộm ) và như chất làm se vết thương , và phèn chua vẫn được sử dụng như chất làm se. Năm 1761 Guyton de Morveau dề xuất cách gọi gốc của Phèn trắng là alumine . Năm 1808 , Humphry Davy xác định được gốc kim khí của phèn chua ( alum ) , mà theo đó ông đặt tên cho nhôm là aluminium .



tên tuổi của Friedrich Wöhler nhìn chung được gắn liền với việc phân lập nhôm vào năm 1827 . Tuy nhiên , kim loại này đã được làm ra lần đi hàng đầu trong dạng không thuần chất hai năm trước bởi nhà vật lý và hóa học Đan Mạch Hans Christian Ørsted .



Nhôm được chọn làm chóp cho kỷ niệm Washington vào thời kì khi một aoxơ ( 28 , 35 g ) có giá trị bằng hai lần ngày lương của người lao động.



Charles Martin Hall nhận được bằng sáng chế năm 1886 , về quy trình điện phân để làm ra nhôm. Henri Saint-Claire Deville ( Pháp ) đã hoàn thiện phương pháp của Wöhler ( năm 1846 ) và biểu hiện nó trong cuốn sách năm 1859 với hai sửa đổi cho tiến bộ hơn trong quy trình là thay thế kali thành natri và hai thay vì một ( chlorure ). Phát minh của quy trình Hall-Héroult năm 1886 đã làm cho việc làm ra nhôm từ khoáng chất trở thành không đắt tiền và hiện nay nó được sử dụng Đường bằng phẳng trên thế giới.



Nước Đức trở nên nhà làm ra nhôm lớn nhất thế giới sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền. Tuy nhiên , năm 1942 , những nhà máy thủy điện mới như Grand Coulee Dam đã cho phép Mỹ những thứ mà nước Đức quốc xã chẳng thể được tràn đầy hy vọng cạnh tranh: khả năng sản xuất đủ nhôm để có xác xuất làm ra 60.000 máy bay khu trục trong bốn năm.



áp dụng

Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất thảy các kim khí khác , trừ sắt , và nó đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Nhôm nguyên chất có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic . Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các tính chất cơ học có xu hướng gia tăng so với bình thường đáng kể.



§ Các hợp kim nhôm tạo thành một thành phần nông dân quan yếu trong các máy bay và tên lửa do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng.



§ Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao trùm như: âm ba cả ánh sáng và bức xạ nhiệt . Các lớp bao trùm này gây nên một lớp mỏng của ôxít nhôm bảo vệ , nó không bị hư hỏng như các lớp bạc bao phủ vẫn hay bị. Trên thực tế , cơ hồ tuốt các loại gương hiện đại được sản xuất sử dụng lớp cộng chấn bằng nhôm trên mặt sau của thủy tinh . Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các như: âm ba bên trong mặc dầu điều này làm cho bề mặt rất thính hơn với các tổn thương.



§ Các loại vỏ phủ nhôm đôi khi được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào đặc tính tiếp nhận bức xạ điện từ của kim ô tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.



§ Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để chế tạo các chi tiết của công cụ chuyên chở ( ô tô , phi cơ , xe tải , toa xe tàu hỏa , tàu biển , v.v. )



§ Đóng gói ( can , giấy gói , v.v )



§ xử lí nước



§ Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần sau chót của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng )



§ Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu bếp , v.v )



§ Các đường dây tải điện ( mặc dù độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn )



§ chế tạo máy móc.



§ mặc dầu tự bản thân nó là không nhiễm từ , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các nam châm Alnico .



§ Nhôm siêu tinh khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong Công lao điện tử và sản xuất đĩa CD .



§ Nhôm dạng bột bình thường được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có thể cho thêm vào trong sơn lót , cốt tử là trong xử lý gỗ - khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.



§ Nhôm dương cực hóa là ổn định hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các khu vực khác nhau của xây dựng.



§ phần lớn các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính hiện đại được làm ra từ nhôm vì nó dễ dàng trong làm ra và độ dẫn nhiệt cao.



§ Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong tự nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong sản xuất sao thủy. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để sản xuất ánh sáng có thể giao thoa .



§ Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm nguyên liệu rắn cho hoả tiễn , nhiệt nhôm và các thành phần của pháo hoa .



§ phản ứng nhiệt nhôm dùng để điều chế các kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao ( như crôm Cr Vonfarm W ... )



Sự phổ thông , điều chế

http://upload.wikimedia.org/wikipedi...C3%A9rault.JPG



Quặng Bauxite chứa nhôm.



mặc dù nhôm là nguyên tố phổ quát trong vỏ địa cầu ( 8 , 1% ) , nó lại hiếm trong dạng không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc và đã từng được cho là kim khí quý quý báu hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm dự phòng cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Vì thế nhôm là kim loại tự do tương đối mới trong Công lao và được sản xuất với số lượng Công lao chỉ khoảng trên 100 năm.



Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó Chia ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì tuốt nhôm của trái đất tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim khí khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ bền vững , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.



Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở nên một trong những thành phần nông dân quan yếu của Công lao luyện nhôm . Việc tái chế đơn giản là nấu chảy kim khí , nó rẻ hơn rất nhiều so với làm ra từ quặng. Việc tinh luyện nhôm hao hụt nhiều điện năng; việc tái chế định mức hao khoảng 5% năng lượng để sản xuất ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dù cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một khu vực mới. Tuy nhiên , nó là lĩnh vực hoạt động trầm lắng cho đến tận những năm cuối thập niên 1960 khi sự Phát nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm chú ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ôtô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị Nhà ở cũ , contenơ và các sản phẩm khác.



Nhôm là một kim khí hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al 2 O 3 ). Việc khử trực tiếp , ví dụ với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000 °C ). Bởi thế , nó được Chia ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau đó bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim khí. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hỗn hợp chỉ còn khoảng 950-980 °C. Cryôlit bổn sơ được tìm thấy như một khoáng chất ở Greenland , nhưng sau thời gian ấy được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hỗn tạp của các florua nhôm , natri và canxi ( Na 3 AlF 6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh chế , quặng này có màu đỏ vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh luyện theo công nghệ Bayer . Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville .



Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wöhler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali .



Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon . Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc. Biến hóa tại catốt mang điện âm là:



Al 3+ + 3e - → Al



Ở đây các ion nhôm bị chuyển biến ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim khí sau đó chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.



Tại cực dương ( anode ) ôxy dạng khí được tạo thành:



2O 2- → O 2 + 4e -



Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy . Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế thường xuyên , do nó bị tiêu hao do phản ứng:



O 2 + C → CO 2



ngược lại với anốt , các catốt gần như không bị tiêu hao trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được canh gác bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị ăn mòn cốt tử là do các biến hóa điện hóa. Sau 5-10 năm , phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải sửa chữa tuốt do các catốt đã bị bào mòn hoàn toàn.



Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Héroult hao hụt nhiều điện năng , nhưng các công nghệ khác xoành xoạch có có lỗi về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Các quy định mất mát năng lượng phổ thông là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được sản xuất. Các lò hiện đại có mức tiêu thụ điện lực khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hiện nghề nghiệp điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A . Các lò hiện nay làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thí nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.



Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của sản xuất nhôm , phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có khuynh hướng được đặt ở những chuye mà nguồn cung cấp điện rất nhiều với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Québec ở Canada .



Trung Quốc hiện là nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 ).



Đồng vị

Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị ổn định ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , t 1/2 = 7 , 2 × 10 5 năm ) tìm thấy trong thiên nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ biến trong tự nhiên là 100%. Al-26 được làm ra từ agon trong khí quyển do đụng chạm sinh ra bởi các tia vũ trụ proton . Các đồng vị của nhôm có áp dụng thực tiễn trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các thiên thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để nghiên cứu vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời gian cháy và sự xói mòn trong thang độ thời gian 105 đến 106 năm ( về sai số ).



Al-26 nguồn gốc vũ trụ đi hàng đầu được sử dụng để nghiên cứu mặt trăng và các thiên thạch . Các thành phần của thiên thạch , sau khi thoát khỏi nguyên lai của chúng , trong khi ngao du trong không gian bị tấn công bởi các tia vũ trụ , ra đời các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống địa cầu , tấm chắn khí quyển đã gác canh cho các phần tử này không ra đời thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có xác xuất sử dụng để chính xác tuổi trên trái đất của các thiên thạch này. Các nghiên cứu về tinh thạch cho thấy Al-26 là tự do tương đối phổ biến trong thời kì hình thành hệ hành tinh của chúng ta. Có xác xuất là năng lượng được giải phóng bởi sự phân rã Al-26 liên đới đến sự nấu chảy lại và sự sai dị của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 6 tỷ năm.



báo trước

Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ thông nhất mà không có công năng hữu ích nào cho các thân hình sống , nhưng có một số người bị dị ứng với nó — họ bị các chứng viêm da do gặp mặt với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng tiếp thụ các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn ọe hay các triệu chứng khác của bị trúng độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống ỉa chảy ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là chất độc như các kim loại nặng , nhưng có mật hiệu của ngộ độc nếu nó được hấp thu nhiều , mặc dù việc sử dụng các đồ Bếp bằng nhôm ( phổ thông do khả năng chống ăn mòn và dẫn nhiệt tốt ) nói chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng ngộ độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng quá nhiều các chất hút mồ hôi chứa nhôm có lẽ là nguồn duy nhất ra đời sự ngộ độc nhôm. Người ta ý rằng nhôm liên đới đến bệnh Alzheimer , mặc dầu các nghiên cứu gần đây đã bị bác bỏ.



Cần cẩn thận để không cho nhôm tiếp kiến với một số chất hóa học nào đó có xác xuất ăn mòn nó rất nhanh. Ví dụ , chỉ một lượng nhỏ thủy ngân gặp mặt với bề mặt của miếng nhôm có thể phá hủy lớp ôxít nhôm gác canh thông thường có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một một cái xà có kiến trúc nặng nề có khả năng bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại nhiệt biểu thuốc độc không được phép trong nhiều sân bay và hãng v , vì nhôm là thành phần kiến trúc cơ bản của các máy bay.



Hóa học

thể trạng ôxi hóa 1

§ AlH được pha chế khi nhôm bị nung nóng ở nhiệt độ 1500 °C trong hiđrô .



§ Al 2 O được phối chế bằng cách nung nóng ôxít bình thường , Al 2 O 3 , với silic ở nhiệt độ 1800 °C trong chân không .



§ Al 2 S được điều chế bằng cách nung nóng Al 2 S 3 với vỏ nhôm ở nhiệt độ 1300 °C trong chân không. Nó mau chóng bị chuyển thành các chất ban đầu. Selenua được phối chế tương tự.



§ AlF , AlCl và AlBr tồn tại trong pha khí khi ba halua được nung nóng cùng với nhôm.



thể trạng ôxi hóa 2

§ Subôxít nhôm , AlO có khả năng được tồn tại khi bột nhôm cháy trong ôxy .



trạng thái ôxi hóa 3

§ quy tắc tam suất Fajans chỉ ra rằng cation hóa trị ba Al 3+ là không được mong tìm thấy trong các muối khan hay trong các hợp chất nhị phân như Al 2 O 3 . Hiđrôxít nhôm là một bazơ yếu và muối nhôm của các axít yếu , chẳng hạn như cacbonat , không thể tạo ra. Muối của các axít mạnh , chẳng hạn như nitrat , là ổn định và hòa tan trong nước , tạo thành các hiđrat với ít nhất sáu phân tử nước kết tinh .



§ Hiđrua nhôm , ( AlH 3 ) n , có thể sản xuất từ trimêthyl nhôm và hiđrô dư dật. Nó cháy kèm nổ trong khí trời. Nó cũng có thể được điều chế bằng đặc tính của clorua nhôm trên hiđrua liti trong dung dịch ête , nhưng không thể cô lập thành dạng tự do từ dung dịch.



§ Cacbua nhôm , Al 4 C 3 được làm ra bằng cách nung nóng hỗn tạp hai nguyên tố trên 1.000 °C. Các tinh thể màu vàng nhạt có cấu trúc lưới không đơn giản , và đặc tính với nước hay axít loãng tạo ra mêtan . Axêtylua , Al 2 ( C 2 ) 3 , được phối chế bằng cách cho axêtylen đi qua nhôm nóng.



§ Nitrua nhôm , AlN , có thể được sản xuất từ các nguyên tố ở nhiệt độ 800 °C. Nó bị thủy phân bởi nước tạo ra amôniắc và hiđrôxít nhôm .



§ Phốtphua nhôm , AlP , được làm ra tương tự , và bị thủy phân thành phốtphin ( PH 3 ).



§ Ôxít nhôm , Al 2 O 3 , tìm thấy trong tự nhiên như là corunđum , và có thể pha chế bằng cách đốt nóng nhôm với ôxy hay nung nóng hiđrôxít , nitrat hoặc sulfat. Như là một loại đá quý , độ cứng của nó chỉ thua có xoàn , nitrua bo và cacborunđum . Nó gần như không hòa tan trong nước.



§ Hiđrôxít nhôm có xác xuất được phối chế như là một chất kết tủa dạng gelatin bằng cách cho thêm amôniắc vào trong dung dịch của các muối nhôm. Nó là lưỡng tính , vừa là bazơ yếu vừa là axít yếu , có thể tạo ra các muối aluminat với kim khí kiềm . Nó tồn tại trong các dạng tinh thể khác nhau.



§ Sulfua nhôm , Al 2 S 3 , có khả năng điều chế bằng cách cho sulfua hiđrô đi qua bột nhôm. Nó là một chất đa hình.



§ Florua nhôm , AlF 3 , có thể phối chế bằng cách cho hai nguyên tố tác dụng với nhau hay cho hiđrôxít nhôm tác dụng với HF. Nó gây nên phân tử lớn , bay hơi không qua pha nóng chảy ở nhiệt độ 1.291 °C ( thăng hoa ). Nó là một chất rất trơ. Các trihalua khác là các chất dime , có cấu trúc cầu nối.



§ Các hợp chất hữu cơ của nhôm có công thức chung AlR 3 tồn tại và nếu không phải là các phân tử lớn , thì là các chất dime hay trime . Chúng được sử dụng trong tổng hợp chất hữu cơ , ví dụ trimêtyl nhôm .



§ Các chất alumino-hyđrua của phần lớn các nguyên tố có khả năng tích điện dương đã được biết , trong đó có giá trị nhất là hiđrua nhôm liti , Li[AlH 4 ]. Khi bị đốt nóng , nó phân hủy thành nhôm , hiđrô và hiđrua liti , nó bị thủy phân trong nước. Nó có nhiều áp dụng trong hóa hữu cơ. Các alumino-halua [AlR 4 ] có cấu trúc tương tự.
Trả lời với trích dẫn


  #2  
Cũ 16-05-2017, 12:04 PM
taile01 taile01 đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: Aug 2016
Bài gửi: 154
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

- Giai Việt Central Premium Plaza khẳng định đẳng cấp với vị trí độc nhất tại quận 8, trở thành biểu tượng của cuộc sống chất lượng cao, là nơi hội tụ của trung tâm thương mại dịch vụ cao cấp bậc nhất khu vực.

- Central Premium Plaza sẽ trở thành trung tâm mua sắm, thương mại, dịch vụ lớn nhất tại quận 8, với 10 tầng Officetel, 6 tầng trung tâm thương mại và 26 tầng căn hộ cao cấp.

- Thiết kế theo phong cách Singapore hiện đại với khu vườn trên không, hồ bơi tràn bờ hiện đại hơn 500m2 với cư dân của Central Premium Plaza đây không chỉ là nơi để sống mà còn là nơi để hưởng thụ, thể hiện đẳng cấp, sự khác biệt của mình mà không phải bất kỳ căn hộ nào cũng có được.

- Central Premium Plaza Tọa lạc ngay mặt tiền Tạ Quang Bửu, giữa lòng trung tâm hành chính quận 8, bên cạnh là UBND Quận 8, trung tâm văn hóa,... Xung quanh là khu biệt thự nhà phố cao cấp. Không còn 1 quỹ đất thứ 2 nào đẹp hơn tại quận 8, Bạn có thể di chuyển dể dàng đến trung tâm quận 1, Phú Mỹ Hưng, Các trường học, bệnh viện chỉ trong vòng 10 phút.

– Cách chợ Bến Thành 15 phút đi xe.
– Cách sân bay Tân Sơn Nhất 35 phút đi xe.
– Gần khu đô thị Phú Mỹ Hưng, sân golf, trường học cấp 1, 2, 3 và trường đại học RMIT, Đại học Sài Gòn, ĐH Tôn Đức Thắng…v..v.v.
– Và cách đường Trần Hưng Đạo 1km.



+ Thanh toán 30% nhận nhà. SCB bảo lãnh vay đến 70%.


http://www.quoccuonghome.vn/block-ce...quan-8_93.html


Chủ đầu tư : QUỐC CƯỜNG GIA LAI - HL 090 3637 288 (Mr Tài)









Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
Trả lời


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com



Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 01:40 PM



Diễn đàn được xây dựng bởi SangNhuong.com
© 2008 - 2024 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.